TIỂU SỬ
Tỳ Kheo Thích Hồng Tại
Tức ĐOÀN TRUNG CÒN (1908-1988)
Nhà Phật Học Miền Nam.
Học giả Đoàn Trung Còn
(1908-1988)
Photos: Bình Anson (2008)
Thật là thiếu sót, nếu chúng ta không đặt cho nhà học Phật Miền Nam Đoàn Trung Còn một chỗ xứng đáng với công đức của ông, mặc dù việc tìm hiểu, sưu tập còn gặp nhiều khó khăn, từ gia đình cũng như đệ tử nối pháp, vẫn chưa công bố những chi tiết để làm sáng tỏ công nghiệp hoằng dương chánh pháp của ông.
Mặc dù vậy, chúng tôi cố gắng ghi chép những gì thu thập được, những thiếu sót, những chi tiết chưa sáng tỏ, mong được nhiều vị đóng góp thêm để bổ sung cho được đầy đủ hơn, để làm thành một tấm gương sáng, cho người học Phật noi theo.
Ông Đoàn Trung Còn sinh năm 1908 tại Thắng Nhì, Vũng Tàu. ông có bằng Thành Chung (Diplomat), rồi đi làm tư chức tại Sàigòn.
Ông bắt đầu viết về đạo Phật, năm 1931 cho xuất bản các sách: Chuyện Phật đời xưa, Văn Minh Nhà Phật Qua Tàu, Triết Lý Nhà Phật do nhà Agence Saigonnaise de Publicité ấn hành.
Sau đó ông cho xuất bản tiếp các sách như: Truyện Phật Thích ca (1932) Tăng đồ Nhà Phật (1934), Các Tông Phái Đạo Phật ở Viễn Đông (1935).
Sau ông thành lập nhà xuất bản lấy tên là Phật Học Tùng Thơ để xuất bản những Kinh, sách Phật Giáo do ông soạn, dịch, còn những Kinh sách do chư Tăng hay cư sĩ khác soạn, dịch ông xuất bản trong Phật Học Thơ Xã. Ông cũng xuất bản những sách Khổng giáo hay Hán văn dưới tên nhà xuất bản Trí Đức Tòng Thơ.
Ông lập gia đình với bà Lê Thị Tàu, quê ở An Giang, sinh được hai người con, một trai, một gái. Bà mất năm 1985.
Ông dùng nhà riêng tọa lạc tại 143 đường Đề Thám (Dixmude cũ), Quận nhứt, Sàigòn để làm nhà Xuất bản Phật Học Tòng Thơ.
Năm 1955, ông hợp tác cùng với chư Tăng và thân hữu thành lập Hội Phật Giáo Tịnh Độ Tông Việt Nam, đặt trụ sở tại chùa Giác Hải, Phú Lâm Chợ Lớn.
Theo Nội Quy của Hội Phật Giáo Tịnh Độ Tông Việt Nam ghi trong Điều I như sau:
Điều I: (bổ túc khoản I trong Bản Điều Lệ)
Tịnh Độ Tông Việt Nam cũng có thể gọi là Hội Phật Giáo Tịnh Độ Việt Nam, Phật Giáo Tịnh Độ Tông Việt Nam, Giáo Hội Tịnh Độ Tông, hoặc vắn tắc là Tịnh Độ Tông.
Bản Điều Lệ của Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam soạn thảo ngày 30-10-1954, Bộ Nội Vụ cho phép Hội hoạt động theo đơn xin thành lập của những vị sau đây:
1. Ông Đoàn Trung Còn, 46 tuổi, sanh ngày 2.11.1908 tại Thắng Nhì (Vũng Tàu), Giám đốc Phật học Tòng thư, 143 đường Dixmude Sàigòn. Ký tên không rõ.
2. Ông Nguyễn Văn Vật, pháp danh Chơn Mỹ, 43 tuổi, sanh năm 1911 tại Chợ lớn, Trụ trì chùa Giác Hải (Phú lâm Chợ Lớn). Ký tên bằng hán tự.
3. Ông Nguyễn Văn Thiệu, Pháp danh Chơn Minh, 44 tuổi sanh năm 1910, tại Tân Hưng (Sa Đéc), Trụ Trì chùa Giác Chơn 67/B đường Renault, Chợ Lớn. Ký tên bằng hán tự.
4. Ông Lý Trung Hiếu, 60 tuổi, sanh ngày 21.11.1894 tại Trường Thạnh (Cần Thơ), Đốc công Sở công chánh, nhà riêng 262 đường Chasseloup-Laubat, Sàigòn. Ký tên không rõ.Kiểm nhận để đính kèm nghị định số 8 BNV/CT ngày nay
Sau nầy, năm 1959 ông xây cất chùa Liên Tông tại số 145 Đề Thám, Giáo Hội Tịnh Độ Tông dời trụ sở về đây hoạt động. Từ năm 1960 đến 1987 chư Hòa Thượng Thích Giác Ý, Hòa Thượng Thích Hồng Ảnh, Thượng Tọa Thích Tuệ Đức đã thay nhau trụ trì chùa Liên Tông, nay là Đại Đức Thích Thiện Huệ.
Trong Giáo Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam, ông Đoàn Trung Còn giữ chức Trị Sự Trưởng Ban Chấp Sự Trung Ương.
Đầu thập niên 70, ông Đoàn Trung Còn xuất gia, thọ giới trở thành tu sĩ Thích Hồng Tại. Dầu đất nước trải qua cuộc bễ dâu, ông vẫn âm thầm sáng tác cho đến ngày viên tịch năm 1988. Giáo Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam tổ chức tang lễ của ông tại chùa Liên Tông sau đó di quan đến nơi hỏa táng ở đồi khuynh diệp của Bác sĩ Tín ở Xa Lộ Biên Hòa.
Tỳ kheo Thích Hồng Tại, Trị sự Trưởng Tịnh Độ Tông Việt Nam được hệ phái Tịnh Độ Non Bồng (núi Dinh - Bà Rịa) tôn vinh lên ngôi vị Hòa Thượng sau khi ngài viên tịch.
Có bằng Thành Chung, nên ông Đoàn Trung Còn thông thạo Pháp Văn, với vốn Hán Văn học ở nhà trường ông đã trao dồi thêm nên có thể dịch Kinh Phật và sách Hán văn, ông tự học chữ Phạn, cho nên kinh Phật dịch ra ông còn chua thêm chữ Pháp và chữ Phạn .
Nhiều Kinh sách của ông in đến lần thứ hai và cũng có kinh sách in lần thứ ba như quyển Tăng Đồ Nhà Phật, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Các Kinh sách ông soạn dịch, có bộ Phật học từ điển (3 quyển), chẳng những được tái bản trong nước và cả ở hải ngoại, thật là một công trình quí giá, chứng tỏ ông nghiên cứu nghiêm túc, có phương pháp, hiểu rộng và chuyên sâu giáo lý đạo Phật.
Những kinh, sách do tự ông hay cộng tác với người khác soạn dịch, xuất bản trong Phật Học Tòng Thơgồm có:
1. Truyện Phật Thích Ca
2. Du lịch xứ Phật
3. Đạo lý nhà Phật
4. Chuyện Phật đời xưa
5. Văn minh nhà Phật.
6. Triết lý nhà Phật.
7. Lịch sử nhà Phật.
8. Pháp giáo nhà Phật
9. Tăng đồ nhà Phật (1934)
10. Các tông phái đạo Phật.
11. Diệu pháp liên hoa kinh (1936).(In lần thứ ba 1969)
12. Một trăm bài kinh Phật.
13. Na Tiên Tỳ kheo kinh.
14. Mấy thầy tu huyền bí.
15. Tam bảo văn chương.
16. Pháp Bảo đàn kinh, cùng dịch với Huyền Mặc Đạo Nhơn (1947)
17. Vô Lượng Thọ kinh. Hán Việt.
18. Quán Vô Lượng Thọ kinh. Hán Việt (1947)
19. Địa Tạng kinh. Hán Việt.
20. Di Lặc kinh. Hán Việt. (in lần thứ hai, 1949)
21. Bồ Tát Giới kinh. Hán Việt (1953)
22. Qui nguyên trực chỉ.
23. Phật Học từ điển. Việt, Hán, Pháp, Phạn (1963)
24. Yếng sáng Á châu
25. Kim cang kinh. Hán Việt
26. Chư Kinh tập yếu (A Di Đà Kinh, Phổ môn, Tứ thập nhị chương kinh, Phật Di giáo kinh, Vô lượng nghĩa Kinh). Hán Việt
27. Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh Hán Việt (1971)
28. Đại Bát Niết Bàn Kinh Hán Việt.
Những kinh, sách, tranh tượng do người khác viết, vẽ xuất bản trong Phật Học Thơ Xã gồm có:
1. Sự tích Phật A Di Đà.
2. 48 lời nguyện của Phật A Di Đà.
3. A Di Đà Kinh (in chung trong Chư Kinh tập yếu)..
4. Kinh Tam Bảo (Di Đà, Hồng danh, Vu lan, Phổ môn, Kim cang)
5. Phật pháp vở lòng.
6. Sách nấu đồ chay.
7. Khuyên tu Tịnh độ.
8. Thành Đạo.
9. Học Phật Chánh pháp. (Sa môn Hiển Tánh) (1942)
10. Quan Âm thị Kính.
11. Nước Ấn độ trước Phật.
12. Quan Âm linh xăm.
13. Tượng Phật A Di Đà.
14. Tượng Phật Thích Ca.
15. Tượng Phật bà Quan Âm.
Những sách Khổng giáo, Hán văn do ông Đoàn Trung Còn soạn dịch xuất bản trong Trí Đức Tòng Thơgồm có:
1. Truyện đức Khổng tử
2. Nhị thập tứ hiếu (Hán Việt)
3. Hiếu Kinh (Hán Việt).
4. Tam tự Kinh (Hán Việt).
5. Tứ thơ: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử (Hán Việt).
6. Tam thiên tự (3 cuốn: 1 cuốn in theo xưa Hán Việt, 1 cuốn in theo Tiểu tự điển Hán Việt Pháp, 1 cuốn in theo Tiểu tự điển Pháp Hán Việt)
7. Minh Đạo Gia Huấn (Hán Việt)
8. Ngũ thiên tự: 2 quyển: 1 quyển theo xưa, 1 quyển theo lối tự điển Hán, Việt, Pháp
9. Học Chữ Hán một mình.
Nhờ những Kinh điển ông soạn dịch từ năm 1931, giúp cho nhiều người hiểu được giáo lý đức Phật, ông góp công không nhỏ trong sự nghiệp canh tân Phật giáo Việt Nam từ thập niên 30 trở về sau nầy. Thiền tông hay Tịnh Độ tông cũng đều là tông phái lớn, lâu đời của Phật giáo Bắc Tông. Cho nên sự nghiệp truyền bá Phật Pháp, xiển dương Tịnh Độ, ông đáng được tôn vinh một Phật tử chân chánh, một Tỳ kheo giới đức.
Tỳ Kheo Thích Hồng Tại
Tức ĐOÀN TRUNG CÒN (1908-1988)
Nhà Phật Học Miền Nam.
Học giả Đoàn Trung Còn
(1908-1988)
Photos: Bình Anson (2008)
Thật là thiếu sót, nếu chúng ta không đặt cho nhà học Phật Miền Nam Đoàn Trung Còn một chỗ xứng đáng với công đức của ông, mặc dù việc tìm hiểu, sưu tập còn gặp nhiều khó khăn, từ gia đình cũng như đệ tử nối pháp, vẫn chưa công bố những chi tiết để làm sáng tỏ công nghiệp hoằng dương chánh pháp của ông.
Mặc dù vậy, chúng tôi cố gắng ghi chép những gì thu thập được, những thiếu sót, những chi tiết chưa sáng tỏ, mong được nhiều vị đóng góp thêm để bổ sung cho được đầy đủ hơn, để làm thành một tấm gương sáng, cho người học Phật noi theo.
Ông Đoàn Trung Còn sinh năm 1908 tại Thắng Nhì, Vũng Tàu. ông có bằng Thành Chung (Diplomat), rồi đi làm tư chức tại Sàigòn.
Ông bắt đầu viết về đạo Phật, năm 1931 cho xuất bản các sách: Chuyện Phật đời xưa, Văn Minh Nhà Phật Qua Tàu, Triết Lý Nhà Phật do nhà Agence Saigonnaise de Publicité ấn hành.
Sau đó ông cho xuất bản tiếp các sách như: Truyện Phật Thích ca (1932) Tăng đồ Nhà Phật (1934), Các Tông Phái Đạo Phật ở Viễn Đông (1935).
Sau ông thành lập nhà xuất bản lấy tên là Phật Học Tùng Thơ để xuất bản những Kinh, sách Phật Giáo do ông soạn, dịch, còn những Kinh sách do chư Tăng hay cư sĩ khác soạn, dịch ông xuất bản trong Phật Học Thơ Xã. Ông cũng xuất bản những sách Khổng giáo hay Hán văn dưới tên nhà xuất bản Trí Đức Tòng Thơ.
Ông lập gia đình với bà Lê Thị Tàu, quê ở An Giang, sinh được hai người con, một trai, một gái. Bà mất năm 1985.
Ông dùng nhà riêng tọa lạc tại 143 đường Đề Thám (Dixmude cũ), Quận nhứt, Sàigòn để làm nhà Xuất bản Phật Học Tòng Thơ.
Năm 1955, ông hợp tác cùng với chư Tăng và thân hữu thành lập Hội Phật Giáo Tịnh Độ Tông Việt Nam, đặt trụ sở tại chùa Giác Hải, Phú Lâm Chợ Lớn.
Theo Nội Quy của Hội Phật Giáo Tịnh Độ Tông Việt Nam ghi trong Điều I như sau:
Điều I: (bổ túc khoản I trong Bản Điều Lệ)
Tịnh Độ Tông Việt Nam cũng có thể gọi là Hội Phật Giáo Tịnh Độ Việt Nam, Phật Giáo Tịnh Độ Tông Việt Nam, Giáo Hội Tịnh Độ Tông, hoặc vắn tắc là Tịnh Độ Tông.
Bản Điều Lệ của Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam soạn thảo ngày 30-10-1954, Bộ Nội Vụ cho phép Hội hoạt động theo đơn xin thành lập của những vị sau đây:
1. Ông Đoàn Trung Còn, 46 tuổi, sanh ngày 2.11.1908 tại Thắng Nhì (Vũng Tàu), Giám đốc Phật học Tòng thư, 143 đường Dixmude Sàigòn. Ký tên không rõ.
2. Ông Nguyễn Văn Vật, pháp danh Chơn Mỹ, 43 tuổi, sanh năm 1911 tại Chợ lớn, Trụ trì chùa Giác Hải (Phú lâm Chợ Lớn). Ký tên bằng hán tự.
3. Ông Nguyễn Văn Thiệu, Pháp danh Chơn Minh, 44 tuổi sanh năm 1910, tại Tân Hưng (Sa Đéc), Trụ Trì chùa Giác Chơn 67/B đường Renault, Chợ Lớn. Ký tên bằng hán tự.
4. Ông Lý Trung Hiếu, 60 tuổi, sanh ngày 21.11.1894 tại Trường Thạnh (Cần Thơ), Đốc công Sở công chánh, nhà riêng 262 đường Chasseloup-Laubat, Sàigòn. Ký tên không rõ.Kiểm nhận để đính kèm nghị định số 8 BNV/CT ngày nay
Sau nầy, năm 1959 ông xây cất chùa Liên Tông tại số 145 Đề Thám, Giáo Hội Tịnh Độ Tông dời trụ sở về đây hoạt động. Từ năm 1960 đến 1987 chư Hòa Thượng Thích Giác Ý, Hòa Thượng Thích Hồng Ảnh, Thượng Tọa Thích Tuệ Đức đã thay nhau trụ trì chùa Liên Tông, nay là Đại Đức Thích Thiện Huệ.
Trong Giáo Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam, ông Đoàn Trung Còn giữ chức Trị Sự Trưởng Ban Chấp Sự Trung Ương.
Đầu thập niên 70, ông Đoàn Trung Còn xuất gia, thọ giới trở thành tu sĩ Thích Hồng Tại. Dầu đất nước trải qua cuộc bễ dâu, ông vẫn âm thầm sáng tác cho đến ngày viên tịch năm 1988. Giáo Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam tổ chức tang lễ của ông tại chùa Liên Tông sau đó di quan đến nơi hỏa táng ở đồi khuynh diệp của Bác sĩ Tín ở Xa Lộ Biên Hòa.
Tỳ kheo Thích Hồng Tại, Trị sự Trưởng Tịnh Độ Tông Việt Nam được hệ phái Tịnh Độ Non Bồng (núi Dinh - Bà Rịa) tôn vinh lên ngôi vị Hòa Thượng sau khi ngài viên tịch.
Có bằng Thành Chung, nên ông Đoàn Trung Còn thông thạo Pháp Văn, với vốn Hán Văn học ở nhà trường ông đã trao dồi thêm nên có thể dịch Kinh Phật và sách Hán văn, ông tự học chữ Phạn, cho nên kinh Phật dịch ra ông còn chua thêm chữ Pháp và chữ Phạn .
Nhiều Kinh sách của ông in đến lần thứ hai và cũng có kinh sách in lần thứ ba như quyển Tăng Đồ Nhà Phật, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Các Kinh sách ông soạn dịch, có bộ Phật học từ điển (3 quyển), chẳng những được tái bản trong nước và cả ở hải ngoại, thật là một công trình quí giá, chứng tỏ ông nghiên cứu nghiêm túc, có phương pháp, hiểu rộng và chuyên sâu giáo lý đạo Phật.
Những kinh, sách do tự ông hay cộng tác với người khác soạn dịch, xuất bản trong Phật Học Tòng Thơgồm có:
1. Truyện Phật Thích Ca
2. Du lịch xứ Phật
3. Đạo lý nhà Phật
4. Chuyện Phật đời xưa
5. Văn minh nhà Phật.
6. Triết lý nhà Phật.
7. Lịch sử nhà Phật.
8. Pháp giáo nhà Phật
9. Tăng đồ nhà Phật (1934)
10. Các tông phái đạo Phật.
11. Diệu pháp liên hoa kinh (1936).(In lần thứ ba 1969)
12. Một trăm bài kinh Phật.
13. Na Tiên Tỳ kheo kinh.
14. Mấy thầy tu huyền bí.
15. Tam bảo văn chương.
16. Pháp Bảo đàn kinh, cùng dịch với Huyền Mặc Đạo Nhơn (1947)
17. Vô Lượng Thọ kinh. Hán Việt.
18. Quán Vô Lượng Thọ kinh. Hán Việt (1947)
19. Địa Tạng kinh. Hán Việt.
20. Di Lặc kinh. Hán Việt. (in lần thứ hai, 1949)
21. Bồ Tát Giới kinh. Hán Việt (1953)
22. Qui nguyên trực chỉ.
23. Phật Học từ điển. Việt, Hán, Pháp, Phạn (1963)
24. Yếng sáng Á châu
25. Kim cang kinh. Hán Việt
26. Chư Kinh tập yếu (A Di Đà Kinh, Phổ môn, Tứ thập nhị chương kinh, Phật Di giáo kinh, Vô lượng nghĩa Kinh). Hán Việt
27. Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh Hán Việt (1971)
28. Đại Bát Niết Bàn Kinh Hán Việt.
Những kinh, sách, tranh tượng do người khác viết, vẽ xuất bản trong Phật Học Thơ Xã gồm có:
1. Sự tích Phật A Di Đà.
2. 48 lời nguyện của Phật A Di Đà.
3. A Di Đà Kinh (in chung trong Chư Kinh tập yếu)..
4. Kinh Tam Bảo (Di Đà, Hồng danh, Vu lan, Phổ môn, Kim cang)
5. Phật pháp vở lòng.
6. Sách nấu đồ chay.
7. Khuyên tu Tịnh độ.
8. Thành Đạo.
9. Học Phật Chánh pháp. (Sa môn Hiển Tánh) (1942)
10. Quan Âm thị Kính.
11. Nước Ấn độ trước Phật.
12. Quan Âm linh xăm.
13. Tượng Phật A Di Đà.
14. Tượng Phật Thích Ca.
15. Tượng Phật bà Quan Âm.
Những sách Khổng giáo, Hán văn do ông Đoàn Trung Còn soạn dịch xuất bản trong Trí Đức Tòng Thơgồm có:
1. Truyện đức Khổng tử
2. Nhị thập tứ hiếu (Hán Việt)
3. Hiếu Kinh (Hán Việt).
4. Tam tự Kinh (Hán Việt).
5. Tứ thơ: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử (Hán Việt).
6. Tam thiên tự (3 cuốn: 1 cuốn in theo xưa Hán Việt, 1 cuốn in theo Tiểu tự điển Hán Việt Pháp, 1 cuốn in theo Tiểu tự điển Pháp Hán Việt)
7. Minh Đạo Gia Huấn (Hán Việt)
8. Ngũ thiên tự: 2 quyển: 1 quyển theo xưa, 1 quyển theo lối tự điển Hán, Việt, Pháp
9. Học Chữ Hán một mình.
Nhờ những Kinh điển ông soạn dịch từ năm 1931, giúp cho nhiều người hiểu được giáo lý đức Phật, ông góp công không nhỏ trong sự nghiệp canh tân Phật giáo Việt Nam từ thập niên 30 trở về sau nầy. Thiền tông hay Tịnh Độ tông cũng đều là tông phái lớn, lâu đời của Phật giáo Bắc Tông. Cho nên sự nghiệp truyền bá Phật Pháp, xiển dương Tịnh Độ, ông đáng được tôn vinh một Phật tử chân chánh, một Tỳ kheo giới đức.
VÀI NÉT VỀ
CƯ SĨ NGUYỄN MINH TIẾN
Cư Sĩ Nguyễn Minh Tiến sinh năm 1961 tại thôn Cổ Lũy, xã Tư Hiền, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, thuộc miền Trung Việt Nam, trong một gia đình Phật tử thuần thành. Từ năm 1968 đã theo gia đình lưu lạc sinh sống qua nhiều nơi. Hiện nay anh đang định cư tại huyện Tân Thành thuộc tỉnh BRVT.
Nguyễn Minh Tiến lấy bút danh Nguyên Minh từ những tác phẩm thơ, nhạc đầu tiên cho đến những bài viết ngắn trên các tập san được phát hành nội bộ từ nhiều năm trước, trong đó có tờ Nội san Đạo Uyển được nhiều người biết đến mà Nguyên Minh là một trong những người tham gia biên tập. Mặc dù vậy, trong những công trình nghiên cứu và dịch thuật, hiệu đính, anh thường ký tên thật là Nguyễn Minh Tiến.
Nguyễn Minh Tiến lấy bút danh Nguyên Minh từ những tác phẩm thơ, nhạc đầu tiên cho đến những bài viết ngắn trên các tập san được phát hành nội bộ từ nhiều năm trước, trong đó có tờ Nội san Đạo Uyển được nhiều người biết đến mà Nguyên Minh là một trong những người tham gia biên tập. Mặc dù vậy, trong những công trình nghiên cứu và dịch thuật, hiệu đính, anh thường ký tên thật là Nguyễn Minh Tiến.
KHÔNG GIAN PHẬT CỦA NGUYỄN MINH TIẾN
Hoàng Kim
Những năm gần đây, thanh niên, sinh viên - học sinh thường vào nhà sách mua những quyển sách nho nhỏ khoảng trăm trang với tựa đề rất giản dị như Ai làm tôi khổ, Nắng mới bên thềm xuân, Hạnh phúc là điều có thật, Ai vào địa ngục... Và những trang sách đã mở ra cho họ thế giới yên tĩnh giữa bộn bề náo động hôm nay. Hình bên: Nguyễn Minh Tiến và tủ sách Rộng mở tâm hồn - Ảnh: H.K
Tự bao giờ, cái tên Nguyên Minh đã trở nên quen thuộc với độc giả. Và ít ai có thể hình dung Nguyên Minh chính là bút danh khác của Nguyễn Minh Tiến, người hiệu đính, biên tập, soạn dịch hàng loạt cuốn sách nặng ký như Lược sử Phật giáo thế giới, Kinh Bi Hoa, Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh, Tứ Diệu Đế, Quy Sơn cảnh sách... Hai bút danh của cùng một người nhưng dường như bản sắc rất khác nhau. Một Nguyễn Minh Tiến sâu sắc, thông tuệ, am tường cả Hán tự, Anh văn, và một Nguyên Minh thủ thỉ tâm tình, mượt mà văn chương, bâng khuâng cảm xúc... Và con người ấy đã chinh phục cả giới nghiên cứu, tu sĩ, lẫn lớp trẻ mới ngập ngừng bước chân vào ngưỡng cửa cuộc đời. Nhưng thú vị hơn cả là anh đã tạo được một không gian Phật giáo vô cùng giản dị mà vẫn khoa học, uyên thâm, qua 15 đầu sách nhỏ mà ấn bản lần đầu đều vượt con số 5.000, chưa kể các đơn đặt hàng yêu cầu tái bản liên tục. Chính không gian ấy cuốn hút người trẻ và giúp họ tìm được "người tư vấn" tâm đắc giữa cuộc sống đang đầy những bộn bề, phức tạp. Nguyễn Minh Tiến đặt tên cho tủ sách là Rộng mở tâm hồn, bởi nếu trái tim ta luôn khép kín với tự ngã hẹp hòi thì không thể nào ta đón nhận được cuộc sống chung quanh.
Nguyễn Minh Tiến tốt nghiệp đại học khoa Văn và Ngoại ngữ, có người cha rất giỏi tiếng Hán, và chính cụ từng ngồi thâu đêm đối chiếu các bản kinh và dịch lại. Anh là con, cũng là học trò của ông, nuôi ước mơ nối tiếp những gì ông ấp ủ. Nhưng một chàng thanh niên nghèo ở vùng quê Bình Thuận xa xôi làm cách nào cho người ta tin vào năng lực? Ban đầu, anh dạy tiếng Anh miễn phí trong chùa, rồi viết những bài báo ngắn cho tờ nội san, coi như làm công quả. Không ngờ độc giả cứ viết thư khen. Anh chợt nghĩ, sao mình không viết thành sách để nhiều người cùng đọc? Thế là năm 2000, anh mang bản thảo đi chào mời. Nhà xuất bản nào cũng lắc đầu. Đến năm 2001, NXB Đồng Nai thử in, và mấy ngàn bản đã bán hết vèo. Rồi anh tình cờ quen biết anh Nguyễn Hữu Cứ - chủ Nhà sách Quang Minh, anh Cứ rất thích bản thảo nhưng vẫn còn lo: "Để thử lần nữa xem sao. Mình chấp nhận huề vốn là được rồi, không cần lời lãi". Lần in này còn thành công hơn nữa. Độc giả hỏi địa chỉ Nguyên Minh, để viết thư thăm hỏi, còn gửi cả rau cải, atisô đến biếu, thật là cảm động. Thế là Nhà sách Quang Minh vừa đầu tư cho những tác phẩm nặng ký của anh, vừa mạnh dạn thành lập tủ sách Rộng mở tâm hồn.
Tinh thần Phật giáo tan hòa trong từng trang sách nhưng không có những thuật ngữ khô khan, nặng đầu. Tác giả chỉ rủ rỉ về hạnh phúc của một phút giây lặng yên bên nhau, có nhau trong đời, hay giá trị của 8 giờ vàng ngọc trong công sở khi ta biết mình có ích cho cuộc sống này, học chữ "nhẫn" trong mỗi giao tiếp hằng ngày, sẻ chia với đồng nghiệp, tự tạo ra "địa ngục" bằng chính sự hẹp hòi, thiển cận, tranh giành... Không hề có giọng dạy đời, chỉ như người bạn tâm tình, vượt qua lằn ranh tôn giáo mà đến với tất cả mọi thành phần trong xã hội.
Hiện anh đã có đề cương 5 quyển tiếp theo, nhưng anh đang phải hoàn thành bản dịch Kinh Đại Bát Niết Bàn 42 quyển mà cha anh đã đối chiếu toàn bộ phần Hán văn (vì ông đã 86 tuổi). Tổng cộng Nguyễn Minh Tiến đã có hơn 60 đầu sách xuất bản, và anh còn bày tỏ hạnh phúc khi Đạt Lai Lạt Ma vừa chấp nhận cho anh dịch toàn bộ tác phẩm của ngài.
Các Tông Phái Đạo Phật, Đoàn Trung Còn..
Chư Kinh Tập Yếu, Đoàn Trung Còn..
Đạo Lý Nhà Phật, Đoàn Trung Còn..
Du Lịch Xứ Phật, Đoàn Trung Còn..
Kinh A Di Đà, Đoàn Trung Còn..
Kinh Bi Hoa, Đoàn Trung Còn..
Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Đoàn Trung Còn..
Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa, Đoàn Trung Còn..
Kinh Di Giáo, Đoàn Trung Còn..
Kinh Dược Sư, Đoàn Trung Còn..
Kinh Duy Ma Cật, Hán Việt, Đoàn Trung Còn..
Kinh Duy Ma Cật, Việt, Đoàn Trung Còn..
Tự bao giờ, cái tên Nguyên Minh đã trở nên quen thuộc với độc giả. Và ít ai có thể hình dung Nguyên Minh chính là bút danh khác của Nguyễn Minh Tiến, người hiệu đính, biên tập, soạn dịch hàng loạt cuốn sách nặng ký như Lược sử Phật giáo thế giới, Kinh Bi Hoa, Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh, Tứ Diệu Đế, Quy Sơn cảnh sách... Hai bút danh của cùng một người nhưng dường như bản sắc rất khác nhau. Một Nguyễn Minh Tiến sâu sắc, thông tuệ, am tường cả Hán tự, Anh văn, và một Nguyên Minh thủ thỉ tâm tình, mượt mà văn chương, bâng khuâng cảm xúc... Và con người ấy đã chinh phục cả giới nghiên cứu, tu sĩ, lẫn lớp trẻ mới ngập ngừng bước chân vào ngưỡng cửa cuộc đời. Nhưng thú vị hơn cả là anh đã tạo được một không gian Phật giáo vô cùng giản dị mà vẫn khoa học, uyên thâm, qua 15 đầu sách nhỏ mà ấn bản lần đầu đều vượt con số 5.000, chưa kể các đơn đặt hàng yêu cầu tái bản liên tục. Chính không gian ấy cuốn hút người trẻ và giúp họ tìm được "người tư vấn" tâm đắc giữa cuộc sống đang đầy những bộn bề, phức tạp. Nguyễn Minh Tiến đặt tên cho tủ sách là Rộng mở tâm hồn, bởi nếu trái tim ta luôn khép kín với tự ngã hẹp hòi thì không thể nào ta đón nhận được cuộc sống chung quanh.
Nguyễn Minh Tiến tốt nghiệp đại học khoa Văn và Ngoại ngữ, có người cha rất giỏi tiếng Hán, và chính cụ từng ngồi thâu đêm đối chiếu các bản kinh và dịch lại. Anh là con, cũng là học trò của ông, nuôi ước mơ nối tiếp những gì ông ấp ủ. Nhưng một chàng thanh niên nghèo ở vùng quê Bình Thuận xa xôi làm cách nào cho người ta tin vào năng lực? Ban đầu, anh dạy tiếng Anh miễn phí trong chùa, rồi viết những bài báo ngắn cho tờ nội san, coi như làm công quả. Không ngờ độc giả cứ viết thư khen. Anh chợt nghĩ, sao mình không viết thành sách để nhiều người cùng đọc? Thế là năm 2000, anh mang bản thảo đi chào mời. Nhà xuất bản nào cũng lắc đầu. Đến năm 2001, NXB Đồng Nai thử in, và mấy ngàn bản đã bán hết vèo. Rồi anh tình cờ quen biết anh Nguyễn Hữu Cứ - chủ Nhà sách Quang Minh, anh Cứ rất thích bản thảo nhưng vẫn còn lo: "Để thử lần nữa xem sao. Mình chấp nhận huề vốn là được rồi, không cần lời lãi". Lần in này còn thành công hơn nữa. Độc giả hỏi địa chỉ Nguyên Minh, để viết thư thăm hỏi, còn gửi cả rau cải, atisô đến biếu, thật là cảm động. Thế là Nhà sách Quang Minh vừa đầu tư cho những tác phẩm nặng ký của anh, vừa mạnh dạn thành lập tủ sách Rộng mở tâm hồn.
Tinh thần Phật giáo tan hòa trong từng trang sách nhưng không có những thuật ngữ khô khan, nặng đầu. Tác giả chỉ rủ rỉ về hạnh phúc của một phút giây lặng yên bên nhau, có nhau trong đời, hay giá trị của 8 giờ vàng ngọc trong công sở khi ta biết mình có ích cho cuộc sống này, học chữ "nhẫn" trong mỗi giao tiếp hằng ngày, sẻ chia với đồng nghiệp, tự tạo ra "địa ngục" bằng chính sự hẹp hòi, thiển cận, tranh giành... Không hề có giọng dạy đời, chỉ như người bạn tâm tình, vượt qua lằn ranh tôn giáo mà đến với tất cả mọi thành phần trong xã hội.
Hiện anh đã có đề cương 5 quyển tiếp theo, nhưng anh đang phải hoàn thành bản dịch Kinh Đại Bát Niết Bàn 42 quyển mà cha anh đã đối chiếu toàn bộ phần Hán văn (vì ông đã 86 tuổi). Tổng cộng Nguyễn Minh Tiến đã có hơn 60 đầu sách xuất bản, và anh còn bày tỏ hạnh phúc khi Đạt Lai Lạt Ma vừa chấp nhận cho anh dịch toàn bộ tác phẩm của ngài.
KINH SÁCH DO THẦY ĐOÀN TRUNG CÒN &
CƯ SĨ NGUYỄN MINH TIẾN DỊCH
CƯ SĨ NGUYỄN MINH TIẾN DỊCH
Các Tông Phái Đạo Phật, Đoàn Trung Còn..
Chư Kinh Tập Yếu, Đoàn Trung Còn..
Đạo Lý Nhà Phật, Đoàn Trung Còn..
Du Lịch Xứ Phật, Đoàn Trung Còn..
Kinh A Di Đà, Đoàn Trung Còn..
Kinh Bi Hoa, Đoàn Trung Còn..
Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Đoàn Trung Còn..
Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa, Đoàn Trung Còn..
Kinh Di Giáo, Đoàn Trung Còn..
Kinh Dược Sư, Đoàn Trung Còn..
Kinh Duy Ma Cật, Hán Việt, Đoàn Trung Còn..
Kinh Duy Ma Cật, Việt, Đoàn Trung Còn..
Kinh Đại Bát Niết Bàn - Đoàn Trung Còn & Nguyễn Minh Tiến: [01] [02] [03] [04] [05] [06] [07] [Thuật Ngữ] [Tổng Quan]
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, Hán Việt Anh..
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, Âm Nghĩa..
Kinh Pháp Bảo Đàn, Đoàn Trung Còn..
Kinh Phổ Môn, Đoàn Trung Còn..
Kinh Tỳ Kheo Na Tiên, Đoàn Trung Còn..
Pháp Gíao Nhà Phật, Đoàn Trung Còn..
Phật Giáo, Đoàn Trung Còn..
Tam Bảo Văn Chương, Đoàn Trung Còn..
Triết Lý Nhà Phật, Đoàn Trung Còn..
Truyện Phật Đời Xưa, Đoàn Trung Còn..
Truyện Phật Thích Ca, Đoàn Trung Còn..
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, Hán Việt Anh..
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, Âm Nghĩa..
Kinh Pháp Bảo Đàn, Đoàn Trung Còn..
Kinh Phổ Môn, Đoàn Trung Còn..
Kinh Tỳ Kheo Na Tiên, Đoàn Trung Còn..
Pháp Gíao Nhà Phật, Đoàn Trung Còn..
Phật Giáo, Đoàn Trung Còn..
Tam Bảo Văn Chương, Đoàn Trung Còn..
Triết Lý Nhà Phật, Đoàn Trung Còn..
Truyện Phật Đời Xưa, Đoàn Trung Còn..
Truyện Phật Thích Ca, Đoàn Trung Còn..
Xem hướng dẫn download tại đây
P.S.: Tất cả các Ebook và Audiobook post ở TSCB đều có tải về máy cả. Nếu có links nào bị hỏng, các bạn làm ơn thông báo cho chúng tôi biết, chúng tôi sẽ upload links mới post lên lại. Nhớ like và share Facebook ủng hộ chúng tôi nhé. Thanks các bạn nhiều nha.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét